ĐẠO VỐN KHÔNG LỜI (4)
Osho
John Donne có
nói như thế này, "Thượng Ðế ở khắp mọi nơi, là một thiên thần trong một
thiên thần, một viên đá trong một viên đá, một cọng rơm trong một cọng
rơm."
Trong tánh
không này bạn sẽ thâm nhập vào trong tận cùng bản thể của vạn pháp. Xuyên suốt
vào bản thể của vạn pháp là một mục tiêu. Nó chỉ được thể hiện khi nào bạn
"bất lập văn tự". Rồi thì mọi chuyện diễn ra.
Hãy lắng
nghe vài lời thơ của Wordsworth :
Con gà đang
gáy
Dòng suối
đang chảy
Ðàn chim nhỏ
hót líu lo
Ánh sáng lấp
lánh trên mặt hồ
Dưới ánh mặt
trời, cánh đồng xanh say ngủ.
Mọi chuyện đều
như thị. Con gà đang gáy và những cánh đồng xanh ngủ yên trong ánh sáng mặt trời.
"Thượng Ðế ở khắp mọi nơi, là một thiên thần trong một thiên thần, một
viên đá trong một viên đá, một cọng rơm trong một cọng rơm." Và rồi Thượng
Ðế biến đi. Chỉ còn lại sự kính tín. Không còn một đấng trời thần nào cả, mà chỉ
còn lại thánh linh, một dòng thánh linh tinh khiết dịu dàng, tràn ngập mọi chiều
kích không gian.
Mới hồi đêm
rồi tôi đang dọc cuốn nhật ký của Leonardo Da Vinci. Trong cuốn nhật ký này
có một câu đập mạnh vào trí tôi: "Trong tất cả những gì lớn lao được tìm
ra chung quanh ta, sự hiện hữu của tánh không là vĩ đại nhất." Kokoro.
Sự hiện hữu
của tánh không không đến từ lời, từ ngôn ngữ, từ ý niệm, từ tâm hay trí
-mochao, mặc chiếu.
Bây giờ
chúng ta đi vào câu chuyện ngụ ngôn này.
Một vị Thiền
sư đã phẩm bình một cách vắn tắt về một môn đồ ưa lý thuyết dông dài về Thiền học...
Này, chuyện
đầu tiên là -Thiền không hề có học thuyết. Thiền không tiếp cận thực tại bằng học
thuyết. Nó không có giáo điều, chủ nghĩa -và bởi thế nó không có nhà thờ, linh
mục hay giáo hoàng. Thiền rất là trần tục, thực tế; nó không đối diện với những
khái niệm trừu tượng. Ðó là một hiện tượng hiếm có. Ðó là môt cuộc hôn phối của
hai dòng tinh thần kiệt xuất -một Ấn Ðộ và một Trung quốc. Tinh thần Ấn Ðộ thì
rất trừu tượng -ngay cả Ðức Phật. Ngài đã cố gắng hết sức để làm giảm bớt trừu
tượng nhưng đâu có thể làm gì khác hơn? Một người Ấn vẫn luôn là một người Ấn.
Tinh thần Ấn
Ðộ thì rất là trừu tượng. Nó đề cập đến những chuyện vô cùng lớn lao, đến những
học thuyết; xoay quanh những tư tưởng lớn. Nó bay bổng trên mây, chẳng bao giờ
hạ cánh xuống mặt đất. Và như thế, hằng bao thế kỷ qua tinh thần Ấn Ðộ đã không
biết làm cách nào để đáp xuống mặt đất. Nó cứ đi lên mà chẳng bao giờ biết cách
quay trở lại. Nó không có rễ. Nó chỉ có cánh mà không có rễ. Ðó là điều khốn khổ.
Tinh thần
Trung Hoa thì thực tế, thực dụng, thực tiễn hơn. Chúng không bay bỗng lên trời
quá mức. Ngay cả nếu chúng có lên tới đó thì cũng luôn bám chặt đôi chân trên mặt
đất, giữ gốc rễ trên mặt đất. Chúng không bay như chim, mà vươn lên trời như một
cái cây. Chúng vẫn giữ gốc rễ trên mặt đất. Lão Tử rất là thực tế, cả Khổng Tử
cũng thế.
Khi Bồ Ðề Ðạt
Ma đến Trung Quốc mang theo thông điệp vĩ đại của Thiền, đã tạo ra một sự giao
lưu tư tưởng lớn, một cuộc đại tổng hợp giữa tinh thần Ấn Ðộ và Trung Quốc. Thiền
vì thế không là Trung Quốc mà cũng không là Ấn Ðộ. Nó chứa đựng cả hai truyền
thống nhưng đồng thời cũng vượt ra khỏi cả hai.
Thế nên nếu
bạn hỏi một tăng sĩ Phật giáo Ấn Ðộ -cũng không nhiều lắm đâu- về Thiền, ông ta
sẽ không xem đây là chuyện quan trọng. Ông ta sẽ nói, "Toàn là chuyện nhảm
nhí." Bất cứ nơi nào mà truyền thống Phật giáo Ấn Ðộ thịnh hành, Tích Lan,
Miến Ðiện, Thái Lan chẳng hạn, không ai nói đến Thiền. Họ cười nữa là khác, cho
rằng đó chỉ là chuyện tiếu lâm.
Ngược lại nếu
bạn nói chuyện với các Thiền giả Trung hoa hay Nhật Bản về các đại tạng kinh Phật
giáo, họ sẽ bảo bạn, "Ðem đốt chúng hết đi ngay lập tức. Tất cả những lý
thuyết trừu tượng đều nhảm nhí. Chúng kéo con người ra khỏi thực tại."
Ðối với tôi,
Thiền là một tổng hợp vĩ đại nhất -một hiện tượng thăng hoa. Trước tiên nó là
hiện sinh mà không là lý thuyết. Nó không nói bất cứ điều gì về chân lý, nó chỉ
cho bạn chân lý, như thị. Một cách đơn giản, nó đánh thức bạn dậy. Nó lay bạn
cho bạn thức giấc, nó la lên cho bạn thức dậy -nhưng nó không hề đưa ra lý thuyết,
nó không cho bạn bất cứ giáo điều, kinh điển nào. Thiền là một tôn giáo duy nhất
có khả năng đốt sạch mọi kinh điển, và là một tôn giáo duy nhất có khả năng hủy
diệt tất cả những gì được gọi là lý tưởng, thần tượng.
Một vị Thiền
sư đã phẩm bình một cách vắn tắt về một môn sinh ưa lý thuyết dông dài về Thiền
học...
Thiền không
hề có học thuyết. Ðây là điều độc nhất vô nhị về Thiền. Cái khoảnh khắc mà bạn
bắt đầu nói về lý thuyết Thiền học, Thiền không còn là Thiền nữa. Ðó là học
thuyết chứ không phải Thiền. Thiền và học thuyết không thể sống chung với nhau.
Học thuyết thì rất hạn chế; trong khi đó Thiền là một thân chứng, một kinh nghiệm
tâm linh vô giới hạn. Thiền chẳng khác gì lòng yêu thương -bạn không thể nào định
nghĩa được.
Vị Thiền sư
nói,
"Bạn có
quá nhiều Thiền"
Ðây là một
câu nói rất hay ho. Khi ông ta nói rằng, "Bạn có quá nhiều Thiền," có
nghĩa là ông ta muốn nói rằng, "Bạn không có chút Thiền nào trong người cả."
Ðó là cách nói của vị Thiền sư. Thay vì nói, "Bạn chẳng có tí gì Thiền cả"
-thì ông nói ngược lại, "Bạn có quá nhiều Thiền". Làm sao mà bạn lại
có quá nhiều Thiền được? Chỉ có hay không mà thôi và đây là cách nói cho thấy rằng
bạn chẳng có tí Thiền nào cả. "Bạn có quá nhiều Thiền" có nghĩa là
"Bạn thu thập rất nhiều học thuyết. Bạn biết quá nhiều về Thiền. Và có thể
là bạn chẳng hề ngó ngàng đến nó."
"Thế
nhưng có gì là trái tự nhiên khi một Thiền sinh nói chuyện về Thiền?" người
học trò bối rối hỏi thầy.
Ta bước qua
vấn đề thứ hai... Trước tiên, Thiền không hề có học thuyết, thứ hai, không hề
có chuyện bất cứ ai đó được gọi là thiền sinh. Không thể có chuyện như vậy. Người
học trò luôn luôn chạy đi tìm học thuyết. Người học trò luôn muốn trở thành người
có kiến thức. Họ chạy đi tìm con rắn chứ đâu có đi kiếm Thiền sư? Họ chạy đi
tìm thầy giáo. Họ chạy đến các trường đại học, các học viện.
Thiền không
hề có học trò. Thiền không có học thuyết nên không thể có học trò, và không thể
có giáo sư. Vâng nó có những Thiền sư và những môn đồ. Nhưng nên nhớ rằng một vị
Thiền sư không phải là một người thầy giáo. Công việc của vị Thiền sư hoàn toàn
trái ngược với công việc của một người thầy giáo. Người thầy giáo dạy bạn, bắt bạn
phải học đủ thứ chuyện -vị Thiền sư thì giúp bạn giải trừ những điều đã học.
Thiền sư vì thế là thuốc giải độc đối với giáo sư. Trong tự điển, có thể ý
nghĩa của hai tiếng này giống nhau, nhưng bạn nhớ cho, trong thế giới của Thiền,
chúng không hề có cùng chung một ý nghĩa.
Tôi là một đạo
sư chứ không phải là một thầy giáo và những ai thật sự đến đây không phải là những
học trò mà là những môn đồ. Thế thì sự khác nhau giữa một người học trò và môn
đồ là gì? Người học trò luôn luôn muốn biết thật nhiều, muốn nắm giữ thật nhiều.
Họ muốn trở thành một nhà học giả. Họ khao khát thèm muốn trái Cây Hiểu Biết.
Người học trò muốn ăn càng nhiều trái táo trên cái cây này càng tốt. Họ đang thực
hiện chuyến viễn du của bản ngã -ham học hỏi, tò mò, nhưng không hề sẵn sàng để
chuyển hóa.
Môn đồ là một
hiện tượng khác biệt. Người môn đồ không hề khao khát kiến thức. Y muốn thấy chứ
không muốn biết. Y muốn thực sự hiện hữu. Y không còn thích thú trong việc tích
lũy kiến thức, y muốn sống thật phong phú. Mà muốn có thêm chất liệu sống y phải
giải trừ tất cả mọi kiến thức, và y đã sẵn sàng. Y sẵn sàng để hy sinh tất cả mọi
thứ. Hướng đi của y vì thế hoàn toàn khác biệt.
Người môn đồ,
khác với người học trò ở chỗ, y không phải là kẻ tích luỹ. Dĩ nhiên khi bạn
tích lũy, bạn sẽ tích lũy ở đâu nếu không phải là trong ký ức? Và như thế,
không phải trong ý thức mà là trong tâm của người học trò, ký ức ngày càng mãi
chồng chất thêm. Trong khi đó, trong tâm của kẻ môn đồ ký ức mỗi ngày càng nhạt
nhòa đi. Y không còn phải mang theo gánh nặng chồng chất của quá khứ. Y chỉ biết
đến những gì thiết yếu nhất. Kiến thức của y chỉ còn tồn đọng những gì có lợi.
Thế nhưng trong lúc đó ý thức của y bắt đầu tăng trưởng. Toàn bộ năng lượng của
y được chuyển từ ký ức sang ý thức.
Ðã có một sự
khác biệt khá lớn lao giữa một người học trò và một môn đồ. Người học trò luôn
luôn muốn biết về một cái gì đó -tất cả nỗ lực của y là để làm sao suy nghĩ tốt
hơn. Kẻ môn đồ thực sự chỉ muốn hiện hữu -tất cả nỗ lực của y chỉ là để hiện hữu
như thế nào, làm sao để trở về lại mái nhà xưa, để đạt đến đôi mắt thơ dại cũ,
như được tái sanh trở lại một lần nữa trên cõi đời này. Ðó là tất cả những gì
mà Chúa Giê Su muốn nói trong câu, "Trừ phi ngươi được tái sanh trở lại."
Chúa đang đi
tìm môn đồ. Và ngài đang nói câu này với Nicodemus, "Trừ phi ngươi được
tái sanh trở lại, ngươi sẽ chẳng bao giờ hiểu được ta và sẽ chẳng có khả năng
vào được nước Trời"...
Có thể bạn
đã không biết được rằng người đàn ông kia không ai khác hơn là Nicodemus, một vị
giáo sư, và trong nỗ lực tìm kiếm kiến thức ông ta đã tìm đến gặp Chúa.
Nicodemus là một mục sư Do thái giáo có tiếng tăm. Ông ta là thành viên trong
ban quản trị của ngôi đền thờ lớn nhất tại Jerusalem. Ông ta không dám đến tìm
gặp Chúa vào ban ngày vì ông ta sợ mọi người cười chê -một bậc thông thái như
thế kia, một vị giáo sư lừng danh trên khắp cả nước, lại đi tìm đến thỉnh giáo
một kẻ vô danh tiểu tốt, một anh chàng híp-py!
Vâng Chúa
Giê Su đã là hình ảnh của một chàng híp-py lặn lội giữa những kẻ khó, những người
thất học, làm thân với những gái điếm, với đủ mọi hạng người, sống chung cùng
những thành phần hèn kém trong xã hội. Ðó là một anh chàng thanh niên trông có
vẻ khùng khùng. Chứ còn gì nữa! Anh ta toàn nói những chuyện đâu đâu may ra chỉ
có những người loạn thần kinh hay ông Phật mới nói đến. Vâng, bất cứ lúc nào có
vấn đề cần phải đi đến quyết định cho rằng một người nào đó là một vị Phật hay
là kẻ loạn thần kinh, bạn sẽ cho rằng y là kẻ loạn thần kinh -bởi vì nếu cho đó
là một vị Phật thì lại đụng đến cái bản ngã của bạn. Thế nên người đời biết đến
Chúa Giê su như là một kẻ loạn trí, hơi khùng, lập dị, và lại đang tụ tập một
nhóm người nguy hiểm chung quanh.
Nicodemus đã
không thể đến tìm gặp Chúa giữa thanh thiên bạch nhật; thế nên đợi đến lúc nữa
đêm ông ta mới tìm đến và mang theo câu hỏi. Ông ta hỏi, "Nưóc Trời là cái
gì mà ngài cứ đi rao giảng mãi như thế? Cái gì vậy? Tôi muốn được biết thêm về
nó". "Biết về nó?"-xin lỗi. "Trừ phi ngươi được tái sanh trở
lại, ngươi sẽ chẳng bao giờ biết được nó là cái gì." Chúa Giê Su trả lời.
Bây giờ thì quả là chuyện quá sức đối với Nicodemus. Tái sanh trở lại? Phải trả
giá lớn lao như thế ư? Chết và tái sanh trở lại. Xem chừng như quá nhiều!
Như thế đó,
một người học trò sẵn sàng chỉ để cò kè từng đồng xu; còn một môn đồ thì thường
trả giá với cả đời mình. Một người học trò thì luôn mang theo câu hỏi; còn môn
đồ... đó không phải là câu hỏi. Không có một danh từ nào trong Anh ngữ để diễn
tả chính xác khái niệm này. Phạn ngữ gọi đó là mumuksha. Ðặt vấn đề, nêu câu hỏi
được gọi bằng một danh từ khác -jigyasa, có nghĩa là một người muốn biết thêm nữa.
Còn mumuksha là người muốn được sống phong phú hơn. Người muốn được giải phóng
mình ra khỏi tất cả những hệ lụy trói buộc. Người không còn muốn bị giam hảm
vào bất cứ vòng nô lệ nào -của truyền thống, của kinh điển, của xã hội, của quốc
gia. Sẽ không còn bất cứ loại nô lệ nào; họ muốn tự do, hoàn toàn tự do. Sự nổi
loạn đó, sự đòi hỏi khẩn thiết để được giải phóng hoàn toàn đó, được gọi là
mumuksha. Trong tiếng Anh không có từ nào để dịch chữ này. Ta có thể gọi đó là lòng
ham muốn được trở thành người không còn ham muốn, lòng ham muốn được hoàn toàn
tự do và ngay cả lòng ham muốn này cũng không còn tồn tại nữa.
(Thiền - Con đường nghịch lý)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét